Cụ thể, gạo 5% tấm của Việt Nam được chào bán quanh mức 365 – 370 USD/tấn, gần như không thay đổi so với tuần trước. Các doanh nghiệp xuất khẩu cho biết lượng đơn hàng mới hạn chế, trong khi khách hàng vẫn chờ đợi diễn biến giá rõ ràng hơn. Số liệu thống kê cho thấy, trong tháng 11/2025, Việt Nam chỉ xuất khẩu khoảng 358.000 tấn gạo, giảm mạnh 49,1% so với cùng kỳ năm ngoái, cho thấy thị trường ngắn hạn vẫn khá trầm lắng.
Tính lũy kế đến hết ngày 30/11, xuất khẩu gạo của Việt Nam đạt 7,535 triệu tấn, tương đương 3,851 tỷ USD. So với cùng kỳ năm 2024, khối lượng giảm 10,88%, trong khi giá trị giảm sâu hơn, ở mức 27,37%, theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam. Diễn biến này phản ánh không chỉ sự sụt giảm về lượng mà còn chịu tác động từ xu hướng giá xuất khẩu thấp hơn so với cùng kỳ.

Ảnh minh họa
Ở thị trường trong nước, giá lúa tại Đồng bằng sông Cửu Long nhìn chung ổn định. Tại Cần Thơ, lúa Jasmine được giao dịch ở mức 8.400 đồng/kg; IR 5451 khoảng 6.200 đồng/kg; ST25 đạt 9.400 đồng/kg; OM 18 ở mức 6.600 đồng/kg. Tại Đồng Tháp, lúa IR 50404 tăng nhẹ 100 đồng/kg lên 6.800 đồng/kg, trong khi OM 18 duy trì ở mức 6.900 đồng/kg. Tại Vĩnh Long, lúa OM 5451 được thu mua khoảng 6.300 đồng/kg, còn OM 4900 quanh mức 7.000 đồng/kg.
Tại An Giang, giá lúa tươi hầu hết giữ nguyên so với tuần trước. OM 18 và Đài Thơm 8 dao động trong khoảng 6.400 – 6.600 đồng/kg; OM 5451 ở mức 5.400 – 5.600 đồng/kg; riêng IR 50404 nhích lên 5.200 – 5.400 đồng/kg.
Về sản xuất, đến ngày 8/12, vụ Thu Đông 2025 tại Đồng bằng sông Cửu Long đã xuống giống khoảng 638.000 ha, đạt 97% kế hoạch. Diện tích thu hoạch đạt 438.000 ha, với năng suất bình quân 57,77 tạ/ha, sản lượng ước đạt 2,53 triệu tấn. Vụ Mùa đã gieo sạ 175.000 ha và bắt đầu thu hoạch trên khoảng 10.000 ha. Đối với vụ Đông Xuân 2025 – 2026, toàn vùng đã xuống giống 275.000 ha, tương đương hơn 20% kế hoạch.
Trên thị trường bán lẻ An Giang, giá gạo tiếp tục ổn định. Gạo thường phổ biến ở mức 11.000 – 12.000 đồng/kg; gạo Jasmine 16.000 – 18.000 đồng/kg; gạo thơm Thái 20.000 – 22.000 đồng/kg; các dòng gạo chất lượng cao như Nàng Hoa, Hương Lài, gạo Nhật duy trì quanh 21.000 – 22.000 đồng/kg.
Giá gạo nguyên liệu và thành phẩm không có nhiều biến động. Gạo nguyên liệu IR 50404 ở mức 7.550 – 7.650 đồng/kg; gạo thành phẩm IR 504 dao động 9.500 – 9.700 đồng/kg. Gạo OM 380 nguyên liệu phổ biến 7.200 – 7.300 đồng/kg, trong khi gạo thành phẩm ở mức 8.800 – 9.000 đồng/kg. Giá phụ phẩm và cám khô duy trì trong khoảng 7.400 – 10.000 đồng/kg.
Trên thị trường quốc tế, giá gạo xuất khẩu của Ấn Độ nhìn chung ổn định trong tuần qua. Trái lại, thị trường Thái Lan ghi nhận xu hướng tăng mạnh, khi giá gạo 5% tấm vọt lên khoảng 400 USD/tấn, mức cao nhất trong hơn 6 tháng. Đà tăng được hỗ trợ bởi lo ngại nguồn cung suy giảm do lũ lụt trong nước và kỳ vọng nhu cầu cải thiện, đặc biệt từ Trung Quốc và Philippines.
Ở Ấn Độ, gạo đồ 5% tấm được chào bán trong khoảng 347 – 354 USD/tấn, còn gạo trắng 5% tấm ở mức 340 – 345 USD/tấn. Đồng rupee suy yếu giúp các nhà xuất khẩu phần nào bù đắp chi phí tăng cao do giá lúa nội địa neo ở mức cao, trong bối cảnh Chính phủ nước này nâng giá thu mua tối thiểu.
Nhìn chung, thị trường gạo toàn cầu đang dần bước vào giai đoạn ổn định hơn sau một năm nhiều biến động. Tuy vậy, xu hướng giá tiếp tục phân hóa rõ rệt giữa các khu vực, khi nguồn cung, nhu cầu và dòng chảy thương mại có sự điều chỉnh khác nhau.
Các chuyên gia nhận định, bước sang năm 2026, thị trường gạo thế giới sẽ vận hành trên nền tảng ổn định hơn, song sự khác biệt giữa các khu vực vẫn sẽ là yếu tố then chốt định hình chiến lược xuất khẩu và giá cả của từng quốc gia.
